Bosna i Hercegovina
Dating > Bosna i Hercegovina
Last updated
Dating > Bosna i Hercegovina
Last updated
Click here: ※ Bosna i Hercegovina ※ ♥ Bosna i Hercegovina
Hercegovina s centrem v Mostaru je pak ta jižní oblast, je tedy značně sušší a hornatější, má zřetelně více horský i středomořský charakter. Grad Banja Luka i grad Mostar se nalaze u općinama istog imena, dok se Sarajevo i Istočno Sarajevo sastoje od nekoliko općina.
Prve preliminarne rezultate popisa. Severni del pokrivajo obsežni redko prekinjeni gozdovi, medtem ko so na jugu mnogokrat rodovitna tla pogosteje kultivirana. Typische Vertreter sind , , , , , duftende , und. Bóng đá Bosnia từng sản sinh ra những cầu thủ tài năng như thủ môn hay tiền đạo đội trưởng. Cao uỷ có nhiều quyền lực chính phủ và lập pháp, gồm bãi chức các quan chức lên giữ chức qua bầu cử và không qua bầu cử. Obyvatelstvo Bosny a Hercegoviny si procházelo těžkou zkouškou. Fauna Un exemplar d' La magnífica conservació de la bosniana ha permés que molts animals extints en altres parts d' puguen desenvolupar-se perfectament sense la intervenció humana. Neke željezničke pruge napravljene su za vrijeme , dok se danas koriste tek povremeno zbog toga što su u ratu uništene. Bei der erhielt der Film Smrt u Sarajevu von Danis Tanović den Silbernen Bären. Crkvena arhitektura Bosne i Hercegovine sastoji se od nekoliko stilova, u zavisnosti od vremena u kojem je građena, odnosno kojem crkvenom krugu pripada. Stanovništvo raste otprilike 0,45% godišnje.
Der kommt in einigen wenigen Brutpaaren in Herzegowina vor. Některé muslimské země v té době navíc zvýšily svojí aktivitu v Jugoslávii; Írán otevřel v Sarajevu své kulturní centrum a , která byla blízký spojenec SFRJ v rámci , financovala výstavbu nových na území Bosny a Hercegoviny. Zbog ograničene pristupačnosti, svijet prirode je malo ugrožen, a staništa rijetkih biljaka i životinja očuvana.
Vaš internet televizor na kome možete gledati domaće TV kanale potpuno besplatno! - Od ptica grabljivica tu su karakteristični za planine i krajeve blizu mora te sokolovi vjetruške rasprostranjeni u cijeloj zemlji.
Bosnia và Herzegovina , , : Bosna i Hercegovina; : Босна и Херцеговина, : Bô-xni-a Héc-xê-gô-vi-na là một tại , trên. Nước này giáp biên giới với ở phía bắc, tây và nam, ở phía đông, và ở phía nam, Bosnia và Herzegovina là một , ngoại trừ 26 kilômét bờ , tại trên thị trấn. Vùng nội địa là núi non ở trung tâm và phía nam, đồi ở phía tây bắc và bằng phẳng ở phía đông bắc. Các nguồn của Bosnia và Herzegovina rất phong phú. Bosna và Hercegovina Босна и Херцеговина Bosna i Hercegovina Huy hiệu Hình thành khoảng 1154 Tỉnh Bosna khoảng 1463 Ottoman chinh phục 1878 Áo-Hung cai trị 29 tháng 10 năm 1918 Ly khai từ Áo-Hung 4 tháng 12 năm 1918 Thành lập 25 tháng 11 năm 1943 Ngày Quốc khánh 1 tháng 3 năm 1992 Độc lập từ Nam Tư 14 tháng 12 năm 1995 Hiến pháp Ngôn ngữ chính thức , , Dân số 2013 3. Nếu không tính đến sắc tộc, một công dân Bosnia và Herzegovina thường được gọi trong là một. Tại Bosnia và Herzegovina, sự phân biệt giữa một người Bosnia và một người chỉ được duy trì như sự phân biệt theo vùng, chứ không phải theo sắc tộc. Về chính trị đây là nhà nước phi tập trung và gồm hai thực thể hành chính, và , với như một thực thể thứ ba. Trước kia là một trong sáu đơn vị liên bao tạo nên , Bosnia và Herzegovina đã giành được độc lập trong hồi thập niên 1990. Bosnia và Herzegovina có thể được miêu tả như một nhà nước đang chuyển tiếp nền kinh tế sang hệ thống định hướng thị trường, và là một để trở thành trong và. Ngoài ra, Bosnia và Herzegovina đã là một thành viên của từ ngày năm và là một thành viên sáng lập của khi liên minh này được thành lập ngày năm. Những bức tường của cổ, Ošanići gần , Bosnia và Herzegovina, thế kỷ thứ III trước. Bosnia đã có người ở ít nhất từ. Đầu , dân cư dồ đá mới bị thay thế bởi sắc tộc hiếu chiến hơn có thể có nguồn gốc , người Illyre hay. Những người nhập cư ở và thế kỷ thứ III trước đã thay thế người Illyrian trên những mảnh đất của họ, đặc biệt là người và , nhưng một số người Celtic và Illyrian đã hòa trộn lẫn nhau, như , , và có thể người. Bằng chứng lịch sử xác đáng về thời kỳ này khá hiếm, nhưng có lẽ vùng này đã được ở bởi một số bộ tộc khác nhau và nói những thứ tiếng khác nhau. Sự xung đột giữa người Illyrian và bắt đầu năm , nhưng La Mã chỉ hoàn thành việc sáp nhập vùng này vào. Trong thời Roma, những người định cư nói tiếng La tinh từ khắp đã sống cùng với người Illyrian và các chiến binh Roma được khuyến khích ở lại trong vùng. Vùng đất ban đầu là một phần của cho tới sự chiếm đóng Roma. Sau sự chia rẽ của Đế chế Roma giai đoạn 337 và 395, Dalmatia và Pannonia trở thành những phần của. Một số người cho rằng vùng này đã bị những người chinh phục năm 455. Sau đó nó thay đổi chủ giữa những người và người. Tới thế kỷ thứ VI, Hoàng đế đã chinh phục vùng này cho. Bosnia thời Trung Cổ 958—1463 Bài chi tiết: Hiểu biết hiện nay về tình hình chính trị ở tây Balkan không nhiều và mâu thuẫn. Ngay khi tới nơi, người Slavơ đã mang cùng với họ một cấu trúc xã hội bộ tộc, và nó có thể đã tan rã nhường chỗ cho khi người tới vùng này hồi cuối. Cũng vào khoảng thời gian này đã bị. Bosnia và Herzegovina, vì vị trí địa lý và đất đai, có thể là một trong những vùng cuối cùng trải qua quá trình này, được cho là khởi đầu từ các vùng đô thị dọc theo bờ biển. Các đô thị của và chia nhau quyền kiểm soát Bosnia và Herzegovina ở thế kỷ thứ IX và thế kỷ thứ X, nhưng tới tình thế chính trị đã khiến vùng này bị rơi vào tranh chấp giữa và Đế chế Byzantine. Sau một sự thay đổi quyền lực nữa giữa hai thực thể này hồi đầu , Bosnia rơi ra ngoài vòng kiểm soát của cả hai và nổi lên thành một nhà nước độc lập dưới sự cai trị của địa phương. Vương triều đáng chú ý đầu tiên của Bosnia, , đã có hoà bình và ổn định trong gần ba thập kỷ và tăng cường phát triển kinh tế quốc gia thông qua các hiệp ước với và. Sự cầm quyền của ông cũng đánh dấu sự khởi đầu một cuộc tranh cãi với , một giáo phái Thiên chúa bản xá bị cả các nhà thờ và coi là dị giáo. Đối đầu với những nỗ lực của người Hungary nhằm sử dụng chính trị nhà thờ trước vấn đề này như một cách thức để tuyên bố chủ quyền với Bosnia, Kulin đã tổ chức một hội đồng các lãnh đạo nhà thờ địa phương để bác bỏ sự dị giáo và đi theo Cơ đốc giáo năm 1203. Dù vậy, những tham vọng của Hungary vẫn không thay đổi trong một thời gian dài sau khi Kulin chết năm 1204, chỉ ngừng lại sau cuộc xâm lược bất thành năm 1254. Hiến chương của Kulin Ban - hiệp ước với Dubrovnik. Hiện ở Bảo tàng Ermitage tại , Nga Lịch sử Bosnia từ đó cho tới đầu được ghi dấu bởi sự cạnh tranh quyền lực giữa các gia đình và. Cuộc xung đột này kết thúc năm 1322, khi trở thành ban. Tới khi ông chết năm 1353, ông đã thành công trong việc sáp nhập các lãnh tổ phía bắc và phía tây, cùng như Zahumlje và nhiều phần của Dalmatia. Ông được kế tục bởi người cháu họ , người, sau một cuộc đấu tranh dài với giới quý tộc và những bất hoà giữa các gia đình, đã giành được toàn bộ quyền kiểm soát đất nước năm 1367. Tvrtko tự phong mình làm vua ngày 26 tháng 10 năm 1377 với danh hiệu Stefan Tvrtko I của , , , ,. Các nhà sử học cho rằng ông đã làm lễ lên ngôi trong một. Một khả năng khác, do P. Tuy nhiên, sau khi ông qua đời năm 1391, Bosnia rơi vào một giai đoạn suy tàn kéo dài. Cuối cùng, sau nhiều thập kỷ bất ổn kinh tế và chính trị, Bosnia chính thức sụp đổ năm 1463. Thời kỳ Ottoman 1463—1878 Bài chi tiết: Cuộc chinh phục Bosnia của Ottoman đã đánh dấu một thời kỳ mới trong lịch sử đất nước và đưa lại những thay đổi lớn trong bối cảnh chính trị và trong vùng. Dù vương quốc đã bị đập tan và giới quý tộc cao cấp của nó đã bị hành quyết, những người Ottoman quả thực đã cho phép duy trì thực thể Bosnia bằng cách sáp nhập nó trở thành một tỉnh hợp thành của Đế chế Ottoman với tên gọi lịch sử và tính toàn vẹn — một trường hợp duy nhất trong số các quốc gia bị nô dịch ở vùng Balkan. Bên trong và cuối cùng là này của Bosnia, những người Ottoman đã thực hiện một số thay đổi quan trọng về cơ quan hành chính chính trị xã hội; gồm một hệ thống sở hữu đất đai mới, tái cơ cấu các đơn vị hành chính, và hệ thống phân biệt xã hội phức tạp theo tầng lớp và tôn giáo. Bốn thế kỷ cai trị của Ottoman đã để lại dấu ấn mạnh trong thành phần dân số Bosnia, nó đã thay đổi nhiều lần sau những cuộc chinh phục của đế quốc, những cuộc chiến tranh thường xuyên với các cường quốc châu Âu, những đợt di cư, những lần bệnh dịch. Một cộng đồng Hồi giáo bản xứ nói tiếng Slavơ đã xuất hiện và cuối cùng trở thành nhóm tôn giáo-sắc tộc lớn nhất chủ yếu như một kết quả của sự dần gia tăng số lượng theo , trong khi một số lượng đáng kể người tới đây sau khi họ bị khỏi Tây Ban Nha hồi cuối thế kỷ. Các cộng đồng Thiên chúa giáo Bosnia cũng trải qua những thay đổi lớn. Các tín đồ Bosnia và tổng thể tín đồ nói chung được bảo vệ bởi nghị định chính thức của đế chế. Cộng đồng tại Bosnia, ban đầu bị hạn chế tại Herzegovina và Podrinje, đã phát triển trong cả nước ở giai đoạn này và có sự thịnh vượng khá cao cho tới thế kỷ XIX. Tuy nhiên, Nhà thờ ly giáo Bosnia đã hoàn toàn biến mất. Khi Đế chế Ottoman thịnh vượng và mở rộng vào Trung Âu, Bosnia thoát khỏi sức ép trở thành tỉnh biên giới và có một giai đoạn bình ổn và thịnh vượng khá dài. Một số thành phố, như Sarajevo và , được thành lập và phát triển trở thành các trung tâm thương mại và lớn của vùng. Bên trong những thành phố đó, nhiều Sultan và các thống đốc cung cấp tài chính cho việc xây dựng nhiều công trình quan trọng của như và. Hơn nữa, số lượng người Bosnia có ảnh hưởng quan trọng trong văn hoá và trong thời gian này khá lớn. Các binh sĩ Bosnia chiếm một thành phần lớn trong mọi cấp bậc chỉ huy quân sự của Ottoman trong và , hai thắng lợi quyết định về quân sự, trong khi nhiều người Bosnia khác thăng tiến qua các cấp bậc quân sự Ottoman để nắm giữ những vị trí quyền lực cao nhất nhất trong Đế chế, gồm các đô đốc, tướng lĩnh, và. Nhiều người Bosnia cũng để lại dấu ấn vĩnh cửu trong văn hoá Ottoman, trở thành các nhân vật thần bí, các học giả, và những nhà thơ nổi tiếng bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Ả Rập, và. Tuy nhiên, tới cuối sự rủi ro quân sự của Đế chế đã gây ảnh hưởng tới đất nước, và sự chấm dứt của cuộc với năm 1699 một lần nữa khiến Bosnia trở thành tỉnh cực tây của Đế chế. Một trăm năm sau đó là khoảng thời gian của những thất bại quân sự khác, nhiều cuộc nổi dậy bên trong Bosnia, và nhiều vụ bùng phát bệnh dịch. Những nỗ lực của Porte nhằm nhà nước Ottoman gặp phải sự chống đối mạnh mẽ tại Bosnia, nơi giới quý tộc địa phương khiến hầu hết các biện pháp cải cách không thể được thực hiện đầy đủ. Điều này, cộng với sự rút lui chính trị trước các nhà nước Thiên chúa giáo mới xuất hiện ở phía đông, dẫn tới một cuộc nổi dậy nổi tiếng dù không thành công của năm 1831. Những cuộc khởi nghĩa liên quan bị dập tắt năm 1850, nhưng tình hình tiếp tục xấu đi. Những cuộc nổi dậy nông dân sau này cuối cùng dẫn đến cuộc , một cuộc khởi nghĩa nông dân trên diện rộng năm 1875. Nó nhanh chóng lan ra và liên quan tới nhiều nhà nước vùng Balkan cũng như các Cường quốc, cuối cùng buộc Đế chế Ottoman phải nhường quyền hành chính của Bosnia cho qua năm 1878. Việc liên kết với Áo-Hung nhanh chóng dẫn đến một thoả thuận với người Bosnia mặc dù những cẳng thẳng vẫn còn lại ở một số vùng thuộc đất nước đặc biệt là Herzegovina và một cuộc di cư quy mô lớn của đa số là người Slavơ bất đồng diễn ra. Với mục tiêu thiết lập một tỉnh như một ổn định sẽ giúp xua tan đi Nam Slavơ đang xuất hiện, sự cai trị Habsburg giúp rất nhiều vào sự hệ thống hoá luật lệ, để đưa ra các cơ chế chính trị mới, và nói chung cung cấp cơ sở cho sự hiện đại hoá. Đế chế Áo-Hung đã xây dựng ba tại Sarajevo và ba nhà thờ này nằm trong 20 nhà thờ Cơ đốc giáo duy nhất trong nhà nước Bosnia. Dù có thành công về mặt kinh tế, chính sách Áo-Hung - tập trung trên việc ủng hộ ý tưởng một quốc gia đa nguyên và đa giáo Bosnia được phần lớn người Hồi giáo ưa thích - đã không thành công khi giải quyết những làn sóng chủ nghĩa quốc gia đang nổi lên. Ý tưởng quốc gia Croat và Serbia đã lan tới các cộng đồng Cơ đốc giáo và Chính thống ở Bosnia và Herzegovina từ nước Croatia và Serbia láng giềng hồi giữa thế kỷ XIX, và quá mạnh mẽ để cho phép sẹ chấp nhận một ý tưởng song song của quốc gia Bosnia. Tới nửa sau những năm 1910, chủ nghĩa quốc gia là một phần không thể tách rời của chính trị Bosnia, với các đảng chính trị quốc gia đại diện cho ba nhóm bầu cử lớn. Ý tưởng về một typically expected to be spear-headed by independent Serbia đã trở nên một phổ biến trong vùng thời gian đó, gồm cả Bosnia và Herzegovina. Quyết định chính thức sáp nhập Bosnia và Herzegovina của chính phủ Áo-Hung năm 1908 xem càng tạo ra cảm giác khẩn trương trong những người theo chủ nghĩa quốc gia. Nga phản đối sự sáp nhập này. Cuối cùng Nga công nhận chủ quyền của Áo-Hung với Bosnia để đối lấy lời hứa của Áo-Hung rằng họ sẽ công nhân quyền của Nga với Eo tại. Không giống như Nga, Áo-Hung không giữ lời hứa và không làm gì để hỗ trợ việc công nhận chủ quyền Nga với eo biển. Căng thẳng chính trị gây ra bởi sự kiện này lên tới đỉnh điểm ngày 28 tháng 6 năm 1914, khi thanh niên người Serb theo chủ nghĩa quốc gia người kế vị ngôi báu Áo-Hung, , tại Sarajevo; một sự kiện dẫn tới. Dù một số người Bosnia đã hy sinh khi phục vụ trong quân đội của nhiều nước tham gia chiến tranh, Bosnia và Herzegovina vẫn tìm cách tránh được cuộc chiến với thiệt hại khá nhỏ. Nam Tư đầu tiên 1918—1941 Sau cuộc chiến tranh, Bosnia và Herzegovina gia nhập nhanh chóng được đổi tên thành Nam Tư Nam Slavơ. Đời sống chính trị tại Serbia ở thời gian này được ghi dấu bởi hai khuynh hướng chính: bất ổn kinh tế và xã hội về , và việc thành lập nhiều đảng chính trị thường thay đổi giữa các liên minh và các phe phái với các đảng ở các vùng khác thuộc Nam Tư. Tư tưởng xung đột thống trị của nhà nước Nam Tư, giữa chủ nghĩa khu vực Croatia và sự tập trung hoá Serbia, là tiếp cận một cách khác biệt bởi các đa số của Bosnia và phụ thuộc vào không khí chính trị chung. Thậm chí có hơn 3 triệu người Bosnia ở Nam Tư, vượt quá số người Slovene và Montenegro cộng lại, tinh thần quốc gia Bosnia bị ngăn cấm bởi Vương quốc mới. Dù sự chia rẽ ban đầu của đất nước trở thành 33 đã xoá bỏ sự hiện diện của các thực thể địa lý truyền thống khỏi bản đồ, các nỗ lực của những chính trị gia Serbia như đã đảm bảo rằng 6 oblast được chia cắt khỏi Bosnia và Herzegovina tương ứng với 6 sanjaks từ thời Ottoman, và vì thế, thích ứng với biên giới truyền thống quốc gia như một tổng thể. Tuy nhiên, vệc thành lập Vương quốc Nam Tư năm 1929, đã dẫn tới việc vẽ lại các vùng hành chính vào trong có mục đích tránh mọi đường ranh giới lịch sử và sắc tộc, bỏ đi bất kỳ dấu vết nào của một thực thể Bosnia. Căng thẳng Serbia-Croatia về cấu trúc nhà nước Nam Tư vẫn tiếp tục, với ý tưởng về một sự phân chia Bosnia tách biệt ít được hay không được chú ý. Tuy nhiên, bên ngoài các hoàn cảnh chính trị buộc các chính trị gia Nam Tư phải thay đổi sự quan tâm tới sự đe doạ ngày càng lớn của của. Sau một giai đoạn với những nỗ lực , việc ký kết , và một cuộc , Nam Tư cuối cùng bị Đức xâm lược ngày 6 tháng 4 năm 1941. Thế Chiến II 1941—45 Cầu đường sắt trên , đã hai lần bị phá huỷ trong. Khi vương quốc Nam Tư đã bị các lực lượng Phát xít chinh phục trong , toàn bộ Bosnia bị nhượng lại cho. Các lãnh đạo người Croat cùng với người địa phương tiến hành một chiến dịch tiêu diệt , , , và một số lượng lớn của bằng cách lập ra một số. Khoảng 80,000 đã bị giết hại tại trại Jasenovac gồm 7,000 trẻ em. Nhiều người Serb trong vùng cầm vũ khí và gia nhập ; một quốc gia và bảo hoàng tiến hành chống lại cả Ustashe phát xít và cộng sản. Dù ban đầu chiến đấu chống Phát xít, giới lãnh đạo Chetnik được nhà vua lưu vong ra lệnh chiến đấu chống du kích. Chetniks ban đầu nhận được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và Anh Quốc. Bắt đầu từ năm 1941, những người cộng sản Nam Tư dưới sự lãnh đạo của người Croatia đã tổ chức nhóm kháng chiến đa sắc tộc đầu tiên, Du kích, họ chiến đấu chống lại cả Phe trục và các lực lượng Chetnik. Ngày 25 tháng 11 năm 1943 với Tito là người lãnh đạo tổ chức một hội nghị tại theo đó Bosnia và Herzegovina được tái lập như một nước cộng hoà bên trong liên bang Nam Tư trong các biên giới Habsburg của nó. Thắng lợi quân sự cuối cùng đã khiến ủng hộ Du kích, nhưng từ chối đề nghị giúp đỡ của họ và thay vào đó dựa vào chính các lực lượng của mình. Tất cả các cuộc tấn công quân sự lớn của phong trào chống phát xít của Nam Tư chống lại Phát xít và những người địa phương ủng hộ chúng được tiến hành tại Bosnia-Herzegovina và người dân ở đây cũng là lực lượng chiến đấu chính. Cuối cùng sự chấm dứt chiến tranh cũng dẫn đến sự thành lập nhà nước , với chính thức biến Bosnia và Herzegovina trở thành một trong sáu nhà nước cộng hoà hợp thành của quốc gia mới. Nam Tư xã hội chủ nghĩa 1945—1992 Bài chi tiết: Vì vị trí địa lý ở trung tâm bên trong liên bang Nam Tư, Bosnia thời hậu chiến được lựa chọn một cách chiến lược như một cơ sở cho sự phát triển ngành công nghiệp. Điều này góp phần vào sự tập trung lớn về vũ khí và trang bị tại Bosnia; một yếu tố quan trọng trong cuộc diễn ra sau sự tan rã của Nam Tư thập kỷ 1990. Tuy nhiên, sự tồn tại của Bosnia bên trong Nam Tư, phần lớn, là hoà bình và thịnh vượng. Dù được coi là một nơi tù túng chính trị của liên bang trong hầu hết thập niên 50 và 60, thập kỷ 70 chứng kiến sự thăng tiến mạnh của tầng lớp tinh hoa chính trị Bosnia mạnh một phần nhờ vị thế lãnh đạo của Tito trong và những người Bosnia làm việc trong các của Nam Tư. Tuy làm việc bên trong hệ thống , các chính trị gia như , và đã củng cố và bảo vệ chủ quyền của Bosnia và Herzegovina Những nỗ lực của họ đã được minh chứng tầm quan trọng trong giai đoạn hỗn loạn sau cái chết của Tito năm 1980, và hiện được một số người coi là những bước đầu tiên hướng tới sự độc lập của Bosnia. Tuy nhiên, nước cộng hoà đã thoát khỏi không khí chủ nghĩa quốc gia ngày càng gia tăng một cách ít bị ảnh hưởng nhất. Với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và sự tan rã của Nam Tư, học thuyết cộng sản cũ về sự khoan dung bắt đầu mất dần hiệu lực, tạo ra một cơ hội cho những yếu tố quốc gia trong xã hội mở rộng ảnh hưởng của họ. Chiến tranh Bosnia và Herzegovinia 1992—95 Bài chi tiết: Cuộc bầu cử nghị viện năm 1990 đã dẫn tới một bị thống trị bởi ba đảng dựa trên sắc tộc, đã thành lập liên minh lỏng lẻo với nhau để loại bỏ những người cộng sản khỏi quyền lực. Tuyên bố độc lập sau đó của và và cuộc chiến tranh nối tiếp đặt Bosnia và Herzegovina cùng ba sắc tộc hợp thành của nó trước tình thế khó khăn. Một sự chia rẽ mạnh ngay lập tức nảy sinh về vấn đề tiếp tục ở lại trong mà đại đa số người Serb mong muốn hay tìm kiếm độc lập được đại đa số người Bosnia và người Croat ủng hộ. Các , chủ yếu trong , đã rời bỏ nghị viện trung ương tại Sarajevo, và thành lập ngày 24 tháng 10 năm 1991, đánh dấu sự chấm dứt của liên minh ba sắc tộc cầm quyền sau cuộc bầu cử năm 1990. Quốc hội này thành lập ngày 9 tháng 1 năm 1992, trở thành tháng 8 năm 1992. Chính phủ Bosnia không công nhận nó. Một tuyên bố về chủ quyền của Bosnia và Herzegovina vào tháng 10 năm 1991 được tiếp nối bởi một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập khỏi vào tháng 2 và tháng 3 năm 1992 bị đại đa số người Serb tẩy chay. Kết quả của cuộc trưng cầu dân ý là 63. Bosnia và Herzegovina tuyên bố độc lập một thời gian ngắn sau đó. Sau một giai đoạn căng thẳng leo thang và những vụ xung đột quân sự lẻ tẻ, chiến tranh công khai bắt đầu tại Sarajevo ngày 6 tháng 4. Những bia mộ tại. Những cuộc đàm phán bí mật giữa và về sự phân chia Bosnia và Herzegovina giữa và đã được tổ chức ngay từ tháng 3 năm 1991 được gọi là. Sau tuyên bố của Cộng hoà Bosnia và Herzegovina, người Serb đã tấn công nhiều vùng khác nhau của đất nước. Bộ máy hành chính nhà nước của Bosnia và Herzegovina đã hoàn toàn ngừng hoạt động khi mất đi quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ. Người Serb muốn toàn bộ đất đai nơi người Serb chiếm đa số, vùng phía đông và. Người Croat cùng lãnh đạo của họ cũng có mục tiêu chiếm nhiều phần của Bosnia và Herzegovina thành của Croatia. Các chính sách của Cộng hoà Croatia và lãnh đạo của họ Franjo Tuđman về Bosnia và Herzegovina không bao giờ rõ ràng và luôn gồm mục tiêu tối thượng của Franjo Tuđman mở rộng các biên giới của Croatia. Người Hồi giáo Bosnia, nhóm sắc tộc duy nhất trung thành với chính phủ Bosnia, là một mục tiêu dễ dàng, bởi các lực lượng của chính phủ Bosnia được trang bị kém và không hề được chuẩn bị cho cuộc chiến. Tuy nhiên, trên thực tế, các thành viên người Serb Bosnia của JNA đơn giản chỉ đổi phù hiệu, hình thành nên , và tiếp tục chiến đấu. Được trang bị và vũ trang từ các kho quân dụng của JNA tại Bosnia, được ủng hộ bởi những người tình nguyện và nhiều từ Serbia, và nhận được sự hỗ trợ lớn về trợ giúp nhân đạo, hậu cầu và tài chính từ , những cuộc tấn công của Republika Srpska năm 1992 đã giúp đặt hầu hết đất nước dưới quyền kiểm soát của họ. Ban đầu, các lực lượng Serb tấn công dân cư không phải người Serb ở Đông Bosnia. Khi các và làng mạc đã ở trong tay họ, các lực lượng Serb, quân đội, cảnh sát, bán vũ trang, và thỉnh thoảng, cả những người dân làng là người Serb - đều có hành động giống nhau: các ngôi nhà và căn hộ của người Bosnia bị cướp bóc hay đốt phá một cách có hệ thống, thường dân Bosnia bị bao vây hay bắt giữ, và thỉnh thoảng bị đánh hay bị giết trong quá trình này. Đàn ông và phụ nữ bị cách ly, nhiều người đàn ông bị giam giữ trong các trại. Phụ nữ bị giữ ở nhiều trung tâm giam giữ nơi họ phải sống trong các điều kiện mất vệ sinh, bị đối xử tàn nhẫn theo nhiều cách, gồm cả việc bị cưỡng hiếp nhiều lần. Các binh lính hay cảnh sát người Serb có thể tới các trung tâm giam giữ đó, lựa chọn một hay nhiều người phụ nữ, lôi họ ra và hiếp dân. Tháng 6 năm 1992 sự tập trung chú ý chuyển sang và nơi những nỗ lực giành thêm lãnh thổ của Hội đồng Quốc phòng Croat HVO gặp sự kháng cự. Ngày 18 tháng 6 năm 1992 Lực lượng phòng vệ Lãnh thổ Bosnia tại Novi Travnik nhận được một từ HVO gồm những yêu cầu xoá bỏ các định chế đang tồn tại của Bosnia và Herzegovina, thành lập chính quyền của Cộng đồng Croatia của Herzeg-Bosnia và tuyên bố trung thành với nó, hạ tầm của Lực lượng Phòng vệ Lãnh thổ phụ thuộc vào HVO và trục xuất những người tị nạn Hồi giáo, tất cả phải diễn ra trong 24 giờ. Cuộc tấn công được tung ra ngày 19 tháng 6. Trường tiểu học và bị tấn công và phá hoại. Gornji Vakuf ban đầu bị tấn công bởi người Croat ngày 20 tháng 6 năm 1992, nhưng cuộc tấn công thất bại. Một trong những lãnh đạo Croat đầu tiên ủng hộ liên minh, lãnh đạo của nhóm vũ trang bị giết hại bởi các binh sĩ HVO trong tháng 8 năm 1992, làm suy yếu mạnh nhóm ôn hoà đang hy vọng giữ liên minh Bosnia Croat tiếp tục. Tình hình trở nên nghiêm trọng hơn vào tháng 10 năm 1992 khi các lực lượng Croat tấn công dân cư Bosnia tại. Theo bản cáo trạng , các lực lượng HVO đã quét sạch hầu hết người Hồi giáo khỏi thị trấn Prozor và nhiều làng mạc xung quanh. Cùng lúc ấy, người Croat từ các thị trấn Konjic và Bugojno bị buộc phải rời bọ nhà cửa, trong khi nhiều ngoời bị giết hại hay bị giữ trong các. Liên minh giữa người Croat và người Hồi giáo tan vỡ và hầu hết người Croat bị buộc phải rời bỏ các thành phố có đa số người Hồi giáo Sarajevo, Zenica. Tới năm 1993, khi một cuộc xung đột vũ trang diễn ra giữa chính phủ chủ yếu của người Bosnia tại Sarajevo và Cộng hoà Croatia của Herzeg-Bosnia, khoảng 70% đất nước nằm dưới quyền kiểm soát của Republika Srpska. Các đội DNA đã được sử dụng để thu thập bằng chứng về những hành động tàn bạo của các lực lượng Serbia trong những chiến dịch đó. Một ví dụ đáng chú ý nhất là cuộc , bị coi là. Ước tính 200,000 Bosnia đã bị giết hại bởi Serbia. Tháng 3 năm 1994, việc ký kết Hiệp định Washington giữa các lãnh đạo của chính phủ cộng hoà và Herzeg-Bosnia đã dẫn tới việc thành lập một chung giữa người Croat và người Bosnia, gồm cả lãnh thổ của Cộng hoà Croatia của Herzeg-Bosnia và lãnh thổ do nắm giữ. Một bắt đầu vào tháng 8 năm 1995, chống lại Quân đội Republika Srpska, sau cuộc. Tháng 12 năm 1995, việc ký kết tại bởi các tổng thống của Bosnia và Herzegovina , Croatia , và Serbia đã dẫn tới sự ngừng chiến, tạm thời thành lập cơ sở căn bản cho nhà nước hiện tại. Số lượng nạn nhân được xác định hiện là 97,207, và những ước tính của những cuộc nghiên cứu gần đây cho rằng tổng số chưa tới 110,000 người bị giết hại thường dân và quân đội , và 1. Vấn đề này đang được xem xét. Theo nhiều phán quyết của cuộc xung đột liên quan tới Bosnia và sau này là as well as. Chính phủ Bosnia đã buộc tội Serbia đồng loã trong vụ diệt chủng tại Bosnia trong cuộc chiến tại ICJ. ICJ xét xử ngày 26 tháng 2 năm 2007 xác nhận tình trạng cuộc chiến ở tầm mức quốc tế, dù loại bỏ trách nhiệm trực tiếp của Serbia cho hành động diệt chủng của các lực lượng Serb thuộc. Tuy nhiên ICJ kết luận rằng Serbia đã không ngăn chăn được việc diệt chủng do các lực lượng Serb tiến hành và không trừng phạt được những kẻ đã tiến hành cuộc diệt chủng, đặc biệt là tướng , và đưa chúng ra trước công lý. Các thẩm phán phán quyết rằng tiêu chí về diệt chủng với ý nghĩa đặc biệt để tiêu diệt người Hồi giáo Bosnia là đầy đủ hay Đông Bosnia năm 1995. Toà kết luận rằng các tội ác diễn ra trong cuộc chiến năm 1992—1995, có thể là các theo , nhưng các hành động đó không, tự thân, tạo nên cuộc diệt chủng. Bosnia nằm ở phía tây , giáp biên giới với 932 km ở phía bắc và tây nam, 302 km ở phía đông, và 225 km ở phía đông nam. Đất nước này hầu hết là đồi núi, gồm trung. Các vùng đông bắc giáp với , trong khi phía nam giáp với. Nước này chỉ có 20 kilômét 12 mi đường bờ biển, quanh thị trấn tại Tổng Herzegovina-Neretva. Dù thành phố bị bao quanh bởi các bán đảo Croatia, theo luật của Liên hiệp quốc, Bosnia có quyền đi ra đại dương. Neum có nhiều khách sạn và là một địa điểm du lịch quan trọng. Cái tên nước này bắt nguồn từ hai vùng và , và có biên giới rất mơ hỗ giữa chúng. Bosnia chiếm các vùng phía bắc với diện tích khoảng bốn phần năm toàn bộ lãnh thổ, trong khi Herzegovina chiếm phần còn lại ở phía nam đất nước. Các thành phố lớn là thủ đô , ở vùng tây bắc được gọi là , và ở phía đông bắc, và ở vùng trung tâm Bosnia và , thủ phủ của. Phần phía nam Bosnia có khí hậu Địa Trung Hải rất thuận lợi cho nông nghiệp. Trung Bosnia là vùng nhiều đồi núi nhất của Bosnia với những dãy núi , , và. Đông Bosnia cũng có nhiều núi non với , , , và. Đông Bosnia có nhiều rừng dọc theo sông , và tới 50% tổng diện tích Bosnia và Herzegovina là rừng. Hầu hết các khu rừng nằm ở các phần Trung, Đông và Tây của Bosnia. Bắc Bosnia có vùng đất nông nghiệp màu mỡ dọc sông Sava và vùng này được canh tác rộng. Đất canh tác là một phần của Đồng bằng Parapannonian kéo dài vào trong nước láng giềng Croatia và Serbia. Sông Sava và là nơi có các thành phố Brčko, , và. Phần tây bắc của Bosnia được gọi là Bosanska Krajina và có các thành phố , , , , và. Kozara nằm ở trong vùng rừng này. Nó thoát nước từ 76% lãnh thổ quốc gia vào sông Danube và Biển Đen. Chúng nằm ở vùng tây bắc của Bosanska Krajina. Nó kéo dài suốt trung Bosnia, từ nguồn gần tới Sava ở phía bắc. Về , Bosnia và Herzegovina thuộc và thuộc sở hữu chung giữa tỉnh Illyrian của và tỉnh Adriatic của. Theo , lãnh thổ Bosnia và Herzegovina có thể chia nhỏ tiếp thành ba : các khu Pannonian, các khu rừng hỗn hợp Núi Dinaric và các khu Illyrian. Bosnia và Herzegovina gồm FBiH , RS , và BD. Bosnia và Herzegovina có nhiều cấp độ cơ cấu chính trị dưới cơ cấu chính phủ liên bang. Cấp độ quan trọng nhất trong số đó là sự phân chia quốc gia thành hai thực thể: và. Liên bang Bosnia và Herzegovina chiếm hơn 51% tổng diện tích Bosnia và Herzegovina, trong khi cộng hòa Srpska chiếm khoảng 49%. Các thực thể, phần lớn dựa trên lãnh thổ được nắm giữ bởi hai bên mâu thuẫn ở thời điểm trước, đã được chính thức thành lập theo thoả thuận hoà bình Dayton năm 1995 vì những thay đổi to lớn trong cơ cấu sắc tộc tại Bosnia và Herzegovina. Từ năm 1996 quyền lực của các thực thể so với chính phủ liên bang đã suy giảm mạnh. Tuy thế, các thực thể vẫn có nhiều quyền lực của riêng mình. Quận Brcko ở phía bắc đất nước được thành lập năm 2000 với đất đai lấy từ cả hai thực thể. Nó chính thức thuộc về cả hai, nhưng không nằm dưới sự quản lý của bên nào, và hoạt động dưới một hệ thống phi tập trung. Quận Brčko đã được ca ngợi vì duy trì được một dân số đa sắc tộc ở mức độ thịnh vượng cao trên mức trung bình của quốc gia. Cấp độ phân chia chính trị thứ ba của Bosnia và Herzegovina là các. Chúng chỉ riêng có tại thực thể Liên bang Bosna và Hercegovina, với tổng số mười tổng. Tất cả các tổng đều có chính phủ riêng của mình, và nằm dưới pháp luật liên bang như một tổng thể. Một số tổng có dân chúng đa sắc tộc và có những điều luật đặc biệt được áp dụng để đảm bảo sự bình đẳng của mọi sắc tộc. Cấp độ phân chia chính trị thứ tư của Bosnia và Herzegovina là các đô thị. Liên bang Bosnia và Herzegovina được chia thành 74 khu đô thị và cộng hòa Srpska thành 63. Các khu đô thị có chính quyền địa phương riêng của mình, và nói chung dựa trên thành phố hay địa điểm quan trọng nhất của lãnh địa của mình. Như vậy, nhiều khu đô thị có truyền thống và lịch sử lâu dài với các biên giới hiện tại của họ. Tuy nhiên, một số khác chỉ mới được thành lập sau cuộc chiến tranh gần đây sau khi những khu đô thị cũ bị chia cắt bởi. Mỗi tổng tại Liên bang Bosnia và Herzegovina gồm nhiều khu đô thị, và chúng lại được chia thành các cộng đồng địa phương. Chúng là: , , , và. Lãnh địa và chính quyền của các thành phố Banja Luka và Mostar tương ứng với các khu đô thị cùng tên, trong khi các thành phố Sarajevo và Đông Sarajevo chính thức gồm nhiều khu đô thị. Các thành phố có chính quyền của riêng mình và có quyền lực nằm trong mức giữa quyền lực của các khu đô thị và các tổng hay thực thể, trong trường hợp cộng hòa Srpska. Như một kết quả của , sự hoà bình dân sự được giám sát bởi được lựa chọn bởi. Cao uỷ có nhiều quyền lực chính phủ và lập pháp, gồm bãi chức các quan chức lên giữ chức qua bầu cử và không qua bầu cử. Gần đây hơn, nhiều thể chế trung tâm đã được thành lập như , bộ an ninh, toà án nhà nước, sở ,.. Toà nhà Nghị viện Bosnia sau khi được xây dựng lại. Đại diện chính phủ Bosnia và Herzegovina đại diện bởi giới tinh hoa của ba nhóm chính trong nước, mỗi nhóm đều được đảm bảo một phần quyền lực. Chức được luân phiên giữa ba thành viên , , , mỗi người giữ chức trong nhiệm kỳ tám tháng trong nhiệm kỳ bốn năm của họ. Chức được Tổng thống chỉ định và được Hạ viện thông qua. Ông hay bà ta sau đó chịu trách nhiệm chỉ định một , Bộ trưởng , và những chức vụ khác theo nhu cầu. Nó gồm hai viện: Viện Nhân dân và Viện Đại biểu. Viện Nhân dân gồm 15 đại biểu, hai phần ba đại biểu từ Liên bang 5 người Croat và 5 người Bosnia và một phần ba từ cộng hòa Srpska 5 người Serb. Viện Đại biểu gồm 42 thành viên, hai phần ba được bầu từ Liên bang và một phần ba từ cộng hòa Srpska. Toà án Hiến pháp Bosnia và Herzegovina là cơ quan trọng tài tối cao về các vấn đề pháp lý. Nó gồm chín thành viên: bốn thành viên được lựa chọn bởi Viện Đại biểu của Liên bang, hai bởi Quốc hội cộng hòa Srpska, và ba bởi Chủ tịch sau khi tư vấn Tổng thống. Tuy nhiên, quyền lực chính trị cao nhất nước là Đại diện cấp Cao tại Bosnia và Herzegovina, lãnh đạo cho sự hiện diện nhân quyền quốc tế tại quốc gia. Từ năm 1995, Đại diện cao Cấp đã có thể bỏ qua nghị viện được bầu, và từ năm 1997 đã có thể loại bỏ các quan chức được bầu. Các biện pháp được Đại diện cao Cấp lựa chọn đã bị chỉ trích là phi dân chủ. Sự giám sát quốc tế sẽ chấm dứt khi đất nước này ổn định về chính trị và dân chủ và có khả năng tự duy trì. Xem thêm: là một trong những mục tiêu chính trị chính của Bosnia và Herzegovina, họ đã khởi động năm 2007. Những nước tham gia vào quá trình này đã có cơ hội được trở thành thành viên của EU và một khi họ đáp ứng đủ các điều kiện để trở thành thành viên của Liên minh châu Âu. Vì thế,Bosnia và Herzegovina là một ứng cử viên có tiềm năng trở thành thành viên EU. Việc thực hiện năm 1995 đã tập trung vào các nỗ lực của những người tạo lập chính sách tại Bosna và Hercegovina, cũng như , về ổn định vùng tại các quốc gia kế tục của. Mối quan hệ của quốc gia này đối với các nước láng giềng như , và đã đi vào ổn định từ khi được ký kết năm 1995. Căng thẳng giữa ba nhóm sắc tộc này vẫn còn lớn và thường gây ra những sự bất đồng chính trị. Theo cuộc , Bosnia và Herzegovina có dân số 4. Theo sắc tộc, 1. Theo dữ liệu năm 2000 từ , các nhóm sắc tộ lớn nhất Bosnia là 48% , 37% và người Croat 14%. Có một sự tương quan lớn giữa bản sắc sắc tộc và : chiếm 45% dân số, 36%, 15%, và các nhóm khác, gồm và , 4%. Những cuộc di cư lớn trong thời các cuộc chiến tranh Nam Tư thập niên 1990 đã gây ra sự thay đổi nhân khẩu lớn trong nước. Từ năm 1991 không một cuộc điều tra dân số nào được tiến hành, và những sự bất đồng chính trị đã khiến việc tổ chức một cuộc điều tra không thể diễn ra. Tuy vậy, một cuộc điều tra dân số đã được lập kế hoạch cho năm 2011. Bởi các cuộc điều tra dân số chỉ mang tính thống kê, bao hàm, và là một cách để phân tích nhân khẩu, hầu như mọi dữ liệu thời hậu chiến chỉ đơn giản là một ước tính. Tuy nhiên, hầu hết các nguồn, ước tính dân số khoảng bốn triệu người, giảm 350,000 từ năm 1991. Xem thêm: Bosnia đối mặt với vấn đề kép xây dựng lại đất nước đã bị tàn phá bởi chiến tranh và thực hiện nhữn cải cách thị trường cho nền kinh tế tập trung hế hoạch hoá trước đây của họ. Một di sản của thời trước là ngành công nghiệp quân sự với quá nhiều nhân công; dưới thời lãnh đạo cũ , các ngành công nghiệp quân sự được khuyến khích bên trong nhà nước cộng hoà, dẫn tới sự phát triển một phần lớn các nhà máy quốc phòng Nam Tư tại đây nhưng lại ít những nhà máy thương mại. Trong hầu hết lịch sử Bosnia, dựa trên các trang trại nhỏ và kém hiệu quả của tư nhân; thực phẩm thường được nhập khẩu. Cuộc chiến hồi những năm 1990 đã gây ra một sự thay đổi lớn trong nền kinh tế Bosnia. GDP giảm 75% và việc phá huỷ cơ sở hạ tầng cũng tàn phá nền kinh tế. Tuy hầu hết năng lực sản xuất đã được khôi phục, kinh tế Bosnia vẫn đối mặt với những khó khăn to lớn. Những con số GDP và thu nhập trên đầu người đã tăng 10% từ năm 2003 tới năm 2004; điều này và khoản đang giảm xuống của Bosnia là những khuynh hướng tích cực, nhưng tỷ lệ thất nghiệp cao và lớn vẫn là một vấn đề đáng lo ngại. Đồng tiền tệ quốc gia là KM gắn với đồng , được kiểm soát bởi một. Lạm phát hàng năm đang ở mức thấp nhất so với các quốc gia trong vùng với 1. Bosnia và Herzegovina có một trong những mức cao nhất thế giới, hạng 8 trong số 193 quốc gia. Tính đến năm 2016, GDP của Bosnia và Herzegovina đạt 16. Theo dữ liệu của , GDP theo sức mua tương đương trên đầu người của Bosnia và Hercegovina đứng ở mức 30% trung bình của EU năm 2008. Có ba nhà cung cấp dịch vụ điện thoại trên đất liền, dù mỗi công ty chủ yếu hoạt động ở một vùng riêng biệt. Tỷ lệ truy cập Internet đang tăng, với các dịch vụ gồm và ngày càng phổ thông. Các dịch vụ được cung cấp bởi ba nhà cung cấp. Các dịch vụ dữ liệu di động cũng có mặt, gồm và tốc độ cao. Bosnia cũng trở thành một địa điểm trượt tuyết và ngày càng được ưa chuộng. Bosnia và Herzegovina là một trong những vùng cuối cùng chưa được khám phá tại , với nhiều địa điểm tự nhiên và hoang dã chưa bị khai thác thu hút những người yêu thiên nhiên. Trung là nơi được những người ưa du lịch khám phá yêu thích, gồm cả khí hậu Địa Trung Hải và Alpine. Bài chi tiết: Nghệ thuật Bosnia và Herzegovina luôn phát triển và đa dạng từ các hầm mộ đá thời trung cổ được gọi là tới những bức hoạ tại triều đình. Tuy nhiên, chỉ khi Áo-Hung xuất hiện hội họa nước này mới thực sự phục hưng và phát triển. Những nghệ sĩ đầu tiên được đào tạo tại các viện hàn lâm châu Âu bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XX. Trong số đó có: , Petar Tiješić, Karlo Mijić, Špiro Bocarić, Petar Šain, Đoko Mazalić, Roman Petrović và Lazar Drljača. Sau này, các nghệ sĩ như: Ismet Mujezinović, Vojo Dimitrijević, Ivo Šeremet, và Mica Todorović cùng những người khác bắt đầu nổi lên. Sau Thế Chiến II các nghệ sĩ như: Virgilije Nevjestić, Bekir Misirlić, Ljubo Lah, Meha Sefić, Franjo Likar, , Ibrahim Ljubović, Dževad Hozo, Affan Ramić, Safet Zec, Ismar Mujezinović, và Mehmed Zaimović trở nên nổi tiếng. Âm nhạc , nghệ sĩ vĩ cầm Sarajevo. Các truyền thống Bosnian và Herzogovinian là ganga, rera, và từ thời Ottoman bài phổ biến nhất là. Nhạc Pop và cũng có truyền thống tại đây, với những nghệ sĩ nổi tiếng nhất là , Davorin Popović, , , , và. Tương tự, sẽ không đầy đủ nếu không đề cập tới một số nhà soạn nhạc tài danh như , Esad Arnautalić, , và nhiều ban nhạc pop và , ví dụ , , , , là một trong những người nổi bật nhất tại Nam Tư cũ. Bosnia là quê hương của nhà soạn nhạc , người viết bản hiện nay của Bosnia và Herzegovina và là cha của ca sĩ , nhà soạn nhạc và nghệ sĩ piano. Là một trong số ít quốc gia phát sóng , mọi người cho rằng Bosnia và Herzegovina sẽ là một trong số nước tham gia vào năm 2010. Điện ảnh Bài chi tiết: Các nhà làm nổi tiếng người Serbia gồm Mirza Idrizović, Aleksandar Jevđević, Ivica Matić, nổi tiếng về bộ phim giành Academy Award- và giành giải Golden Globe , , , , , , Dino Mustafić, , và nhiều người khác. Thể thao quốc tế quan trọng nhất trong là việc đăng cai tổ chức , diến ra tại từ ngày 7 đến 19 tháng 2 năm 1984. Bosnia và Herzegovina cũng có nhiều vận động viên điền kinh. NHiều người trong số họ nổi tiếng trong các đội tuyển quốc gia Nam Tư trước khi Bosnia và Herzegovina giành độc lập. Câu lạc bộ Borac đã giành bảy chức vô địch quốc gia Nam Tư, cũng như Cúp vô địch châu Âu năm 1976 và Cup Liên đoàn Bóng ném Quốc tế năm 1991. Câu lạc bộ của Sarajevo là đội vô địch châu Âu năm 1979. Bosnia và Herzegovina thường được tham gia. Câu lạc bộ Jedinstvo, tại Tuzla, đã giành chức Vô địch châu Âu năm 1989 tại Florence. Câu lạc bộ Tuzla-Sinalco của Tuzla giành nhiều chức vô địch Nam Tư nhất, cũng như bốn lần đoạt chức vô địch châu Âu và một lần vô địch Thế giới. Đội tuyển Bosnia đã bảy lần giành chức vô địch Nam Tư, ngoài ra họ bốn lành giành chức vô địch châu Âu: 1994 tại Lyon, 1999 tại Bugojno, 2000 tại Neum, và 2001 tại Kalitea. Câu lạc bộ cờ Borki Predojević từ đã hai lần giành chức vô địch châu Âu: Litohoreu Hy Lạp năm 1999, và Kalitei Hy Lạp năm 2001. Vận động viên hạng trung đã giành nhiều chức vô địch quốc gia, vô địch Nam Tư và vô địch châu Âu. Năm 1978 ông giành danh hiệu thế giới trước vận động viên Elish Obeda người Bahamas. Một vận động viên đấm bốc hạng trung khác đã giành huy chương vàng Olympics tại Los Angeles, 1984. Ông cũng giành chức vô địch Nam Tư năm 1982, Vô địch vùng Balkan năm 1983, và Beograd Trophy năm 1985. Nó xuất hiện từ năm 1903, nhưng nó chỉ trở nên nổi tiếng sau Thế Chiến II. Ở mức độ quốc gia, 1967 và 1984 , 1972 là hai đội bóng đã từng giành chức vô địch Nam Tư. Trong bóng đá, thời độc lập chưa từng giành vé tham gia Giải vô địch châu Âu nhưng từng một lần tham dự vào năm. Bóng đá Bosnia từng sản sinh ra những cầu thủ tài năng như thủ môn hay tiền đạo đội trưởng. Dzeko hiện đang là tay săn bàn số một lịch sử đội tuyển quốc gia với 50 bàn thắng. Các đội tuyển quốc gia Bosnia đã cạnh tranh để có được vận động viên xuất sắc nhất năm. Nhiều cầu thủ sinh tại Bosnia và Herzegovina lựa chọn chơi cho các quốc gia khác theo xác định sắc tộc của họ bởi được đề xuất mức lương cao hơn từ các đội khác. Ví dụ và Mile Mitić đều sinh tại Bosnia, nhưng chơi cho Croatia và Serbia. Những cầu thủ quốc tế nổi tiếng khác của Bosnia và Herzegovina từng có lựa chọn tương tự là , , , , , ,. Bosnia và Herzegovina là nhà vô địch thế giới môn bóng chuyền tại. Nhiều người trong số thành viên đội tuyển đã mất chân trong cuộc Chiến tranh Bosnia. Ẩm thực Bài chi tiết: sử dụng nhiều , nhưng thường với số lượng vừa phải. Nhiều món nhẹ, bởi chúng được nấu với rất nhiều nước, các loại nước chấm hoàn toàn tự nhiên, với số lượng ít hơn các loại nước rau quả trong món. Các nguyên liệu thông thường gồm , , , , , , , , , , , , đậu tươi, , , và kem được gọi là. Ẩm thực Bosnian cân bằng giữa các ảnh hưởng và. Hậu quả của gần 500 năm cai trị của , thực phẩm Bosnia liên quan chặt chẽ tới ẩm thực , , và các nền ẩm thực của và. Tuy nhiên, vì những năm cai trị của , có nhiều ảnh hưởng từ. Các món thịt thông thường gồm chủ yếu là và. Một số món đặc sản địa phương là , , , , , , và toàn bộ các loại đồ ăn ngọt phương Đông. Các loại rượu ngon nhất địa phương có từ nơi có khí hậu thích hợp cho việc trồng nho. Herzegovinian loza tương tự như Italian Grappa nhưng ít ngọt hơn rất phổ biến. Các nhà máy rượu Herzegovinian sản xuất rất nhiều rượu mạnh và cung cấp cho toàn bộ các nhà máy rượu của Nam Tư cũ rượu mạnh là cơ sở của hầu hết các loại. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2009. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015. Bosnia A Short History. Declared as national monument. The Bosnian Manuscript Ingathering Project. University Press of America. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2008. PERSECUTION: THE HVO TAKE-OVERS B. European Journal of Population. Tháng 6 năm 2005. Ngày 26 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2009. Annals of Human Genetics 69 6 : 757—763. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009. Human Development Report 2006. United Nations Development Programme. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009. Ngày 8 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2009.